Math teaching là gì? Các công bố khoa học về Math teaching
Math teaching là hoạt động giảng dạy toán học. Nó bao gồm việc giải thích các khái niệm toán học, hướng dẫn học sinh sử dụng các phương pháp toán học để giải qu...
Math teaching là hoạt động giảng dạy toán học. Nó bao gồm việc giải thích các khái niệm toán học, hướng dẫn học sinh sử dụng các phương pháp toán học để giải quyết các bài toán, và phát triển kỹ năng tính toán và logic của học sinh.
Math teaching, hay còn gọi là giảng dạy toán học, là quá trình giúp học sinh hiểu và áp dụng các khái niệm, kỹ năng và phương pháp toán học nhằm giải quyết vấn đề. Nó có thể được thực hiện ở các cấp độ và phạm vi khác nhau, từ mầm non cho đến trung học và đại học.
Các hoạt động giảng dạy toán học thường bao gồm:
1. Giới thiệu khái niệm: Giảng viên giải thích các khái niệm toán học một cách rõ ràng và sử dụng ví dụ minh họa để giúp học sinh hiểu rõ hơn về chúng. Ví dụ, giảng viên có thể giải thích khái niệm phép cộng bằng cách sử dụng các vật thể để minh họa quá trình cộng.
2. Hướng dẫn giải quyết bài toán: Giảng viên giúp học sinh nắm vững các phương pháp và bước giải quyết bài toán thông qua việc cung cấp hướng dẫn bước by bước và chia sẻ các chiến lược giải quyết.
3. Thực hành: Học sinh thực hành giải các bài tập và bài toán. Giảng viên có thể yêu cầu học sinh làm việc cá nhân, làm việc nhóm hoặc tham gia vào các hoạt động thực tế.
4. Đánh giá và phản hồi: Giảng viên theo dõi tiến trình học tập của học sinh qua các bài tập, bài kiểm tra và các hoạt động khác. Họ cung cấp phản hồi để giúp học sinh cải thiện và phát triển kỹ năng toán học.
Giảng dạy toán học cũng có thể áp dụng các công nghệ và công cụ giảng dạy hiện đại như máy tính, phần mềm học trực tuyến, hoặc các ứng dụng di động để tăng cường hiệu quả và tương tác trong quá trình học. Mục tiêu cuối cùng của giảng dạy toán học là giúp học sinh phát triển kỹ năng tư duy logic, phân tích, giải quyết vấn đề và xây dựng một cơ sở toán học vững chắc.
Trong quá trình giảng dạy toán học, giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật khác nhau để tăng cường việc học và nắm vững kiến thức toán học của học sinh. Dưới đây là một số phương pháp thường được áp dụng:
1. Phương pháp giảng dạy truyền thống: Giảng viên truyền đạt kiến thức thông qua bài giảng lý thuyết, ví dụ minh họa và phép tính. Đây là phương pháp phổ biến và thường được áp dụng ở các cấp độ học tập.
2. Phương pháp thảo luận và mọi người: Giảng viên khuyến khích học sinh thảo luận với nhau để tìm hiểu và giải quyết các vấn đề toán học. Đây là phương pháp khuyến khích sự tham gia và trao đổi ý kiến giữa học sinh.
3. Sử dụng công nghệ: Giảng viên có thể sử dụng máy tính, máy chiếu, bảng điện tử hoặc phần mềm giáo dục để minh họa và truyền đạt kiến thức toán học một cách sinh động. Các ứng dụng di động và trò chơi cũng có thể được sử dụng để tăng cường sự thú vị và tương tác trong quá trình học.
4. Học thông qua vấn đề thực tế: Giảng viên cho học sinh giải quyết các bài toán hoặc thực hiện các dự án có thực để áp dụng kiến thức toán học vào thực tế. Điều này giúp học sinh nhận thức về tầm quan trọng và ứng dụng của toán học trong cuộc sống hàng ngày.
5. Học thông qua trò chơi: Sử dụng trò chơi có tính toán để làm học toán thú vị và hấp dẫn. Điều này giúp học sinh tăng cường sự tập trung và rèn kỹ năng tính toán.
6. Cung cấp hỗ trợ cá nhân: Giảng viên tạo điều kiện để hỗ trợ từng học sinh cá nhân, như đặt câu hỏi, cung cấp giải pháp cá nhân hoặc thực hành thêm, để đảm bảo rằng mỗi học sinh nắm vững kiến thức và kỹ năng toán học.
Ngoài ra, việc sử dụng câu hỏi mở và khởi động tư duy sáng tạo cũng là một phần quan trọng trong việc giảng dạy toán học. Nó giúp học sinh phát triển khả năng tư duy logic và giải quyết vấn đề tự lập.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "math teaching":
Nghiên cứu này đã điều tra cách thức mà các giáo viên sử dụng kiến thức từ nghiên cứu về tư duy toán học của trẻ em và cách thức mà thành tích của học sinh bị ảnh hưởng bởi điều đó. Hai mươi giáo viên lớp một, được phân ngẫu nhiên vào một nhóm thực nghiệm, đã tham gia vào một hội thảo kéo dài một tháng, nơi họ nghiên cứu phân tích dựa trên nghiên cứu về sự phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề của trẻ em trong phép cộng và phép trừ. Các giáo viên lớp một khác (n = 20) được phân ngẫu nhiên vào một nhóm đối chứng. Dù các phương pháp giảng dạy không được quy định cụ thể, nhưng các giáo viên trong nhóm thực nghiệm đã giảng dạy về giải quyết vấn đề nhiều hơn đáng kể và các phép số ít hơn đáng kể so với các giáo viên trong nhóm đối chứng. Các giáo viên trong nhóm thực nghiệm khuyến khích học sinh sử dụng nhiều chiến lược giải quyết vấn đề khác nhau, và họ lắng nghe quá trình mà học sinh sử dụng nhiều hơn đáng kể so với các giáo viên trong nhóm đối chứng. Các giáo viên nhóm thực nghiệm hiểu biết nhiều hơn về các quá trình giải quyết vấn đề của từng học sinh, và họ tin rằng việc giảng dạy nên xây dựng dựa trên kiến thức hiện có của học sinh hơn là các giáo viên trong nhóm đối chứng. Học sinh trong các lớp thực nghiệm đã vượt trội hơn học sinh trong các lớp đối chứng về kiến thức các phép số, khả năng giải quyết vấn đề, mức độ hiểu biết được báo cáo, và sự tự tin được báo cáo trong khả năng giải quyết vấn đề của họ.
Các thực hành phân loại trường đã được ghi nhận nhiều lần là có tác động tiêu cực đến sự phát triển bản thân và thành tích của học sinh, đặc biệt là đối với những học sinh được phân vào nhóm thấp hơn. Dù có những ghi chép này, việc phân loại vẫn tồn tại như một thực hành chuẩn mực trong các trường trung học của Mỹ, có thể một phần là bởi vì chúng ta thiếu những mô hình mà các khoa và giáo viên có thể tổ chức giảng dạy một cách thành công trong các lớp Toán học trung học đa dạng. Bài viết này cung cấp một mô hình như vậy thông qua phân tích định tính và định lượng.
Nhằm nâng cao hiểu biết trong lĩnh vực về giảng dạy công bằng và thành công, chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu dài hơi tại ba trường trung học. Tại một trường, Railside, học sinh đã chứng minh sự tiến bộ vượt trội hơn so với học sinh tại hai trường còn lại và đạt thành tích cao hơn tổng thể trên nhiều tiêu chí. Hơn nữa, sự chênh lệch thành tích giữa các nhóm dân tộc khác nhau tại Railside, vốn tồn tại ở các bài kiểm tra đầu vào, đã biến mất gần như hoàn toàn vào cuối năm thứ hai. Bài viết này cung cấp phân tích về thành công của Railside và xác định các yếu tố đã góp phần vào thành công này.
Thành phần tham gia bao gồm khoảng 700 học sinh khi họ tiến bộ qua ba trường trung học tại California. Railside là một trường trung học đô thị với nền tảng học sinh đa dạng về chủng tộc, ngôn ngữ và kinh tế. Greendale tọa lạc trong một cộng đồng ven biển với nền tảng học sinh đồng nhất hơn, chủ yếu là học sinh da trắng. Hilltop là một trường trung học nông thôn chủ yếu là học sinh da trắng và Latino/a.
Nghiên cứu dài hơi này sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp đa dạng kết hợp. Ba trường được chọn để cung cấp một phạm vi rộng về chương trình học và dân số học sinh khác nhau. Dữ liệu về thành tích và thái độ của học sinh được đánh giá bằng các kỹ thuật thống kê, trong khi các thực hành của giáo viên và học sinh được tài liệu hóa bằng các kỹ thuật phân tích định tính như mã hóa.
Một trong những phát hiện của nghiên cứu là thành công của trường Railside, nơi mà khoa Toán đã dạy các lớp học đa dạng bằng cách tiếp cận hướng đến cải cách. So với hai trường còn lại trong nghiên cứu, học sinh tại Railside đã học hỏi nhiều hơn, yêu thích Toán học hơn và tiến bộ đến các cấp độ Toán học cao hơn. Bài viết này trình bày bằng chứng quy mô lớn về những thành tựu quan trọng này và cung cấp phân tích chi tiết về các cách mà các giáo viên tại Railside đã tạo ra điều đó, với sự chú ý đến các tương tác dạy và học trong các lớp học.
Nghiên cứu gần đây đã sử dụng các mô hình lý thuyết phản hồi mục truyền thống (IRT) để đo lường kiến thức toán học để giảng dạy (MKT). Một số nghiên cứu (ví dụ: Hill, 2007; Izsák, Orrill, Cohen, & Brown, 2010), tuy nhiên, đã báo cáo những phân nhóm khi đo lường MKT của giáo viên trung học cơ sở, và những nhóm này vi phạm một giả định chính của các mô hình IRT. Nghiên cứu này điều tra tính hữu ích của một phương pháp thay thế gọi là
Trong bài viết này, tôi điều tra ảnh hưởng của nền văn hóa chiếm ưu thế trong giáo dục toán học—mà tôi gọi là
Classroom observation of teachers is a significant part of educational measurement; measurements of teacher practice are being used in teacher evaluation systems across the country. This research investigated whether observations made live in the classroom and from video recording of the same lessons yielded similar inferences about teaching. Using scores on the Classroom Assessment Scoring System–Secondary (CLASS-S) from 82 algebra classrooms, we explored the effect of observation mode on inferences about the level or ranking of teaching in a single lesson or in a classroom for a year. We estimated the correlation between scores from the two observation modes and tested for mode differences in the distribution of scores, the sources of variance in scores, and the reliability of scores using generalizability and decision studies for the latter comparisons. Inferences about teaching in a classroom for a year were relatively insensitive to observation mode. However, time trends in the raters’ use of the score scale were significant for two CLASS-S domains, leading to mode differences in the reliability and inferences drawn from individual lessons. Implications for different modes of classroom observation with the CLASS-S are discussed.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10